(ĐHVH)
- Ngữ pháp của một ngôn ngữ là một hệ thống. Trong hệ thống đó có những đơn vị
với những mối quan hệ chế định lẫn nhau.Theo quan niệm truyền thống, các đơn vị
ngữ pháp bao gồm: hình vị, từ, cụm từ, và câu. Chúng có quan hệ cấp độ
với nhau: nhỏ nhất là hình vị, và theo cấp độ tăng dần là từ, cụm từ, câu. Theo
đó, hình vị là đơn vị ngữ pháp cơ sở.
Tìm
hiểu và xác định đúng bản chất, vai trò của hình vị là một trong những vấn đề
quan trọng của ngôn ngữ học. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi xin được trình
bày những quan niệm về đơn vị ngữ pháp cơ sở trong Ngôn ngữ học nói chung và
Việt ngữ học nói riêng. Từ đó góp phần khẳng định đặc điểm riêng của tiếng Việt
- ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.
2.
Nội dung
1.1.
Quan niệm về đơn vị ngữ pháp cơ sở - hình vị trong ngôn ngữ học
1.1.1.
Về vấn đề định nghĩa hình vị
Có
nhiều nhà ngôn ngữ đã định nghĩa về hình vị - đơn vị ngữ pháp cơ sở của Ngữ
pháp học. Trong cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” (Nguyễn Như Ý
chủ biên) có nêu một số cách định nghĩa của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt
Nam như: Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Anh Quế, Hữu Quỳnh, Phan Thiều, Trần Ngọc
Thêm, Hồ Lê, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Võ Bình, Đái Xuân Ninh. Xin được
dẫn ra một số cách định nghĩa :
“Hình
vị là đơn vị nhỏ nhất mà có mang ý nghĩa, mang giá trị ngữ pháp”
(Nguyễn Tài Cẩn. Ngữ pháp tiếng Việt.
Nxb ĐHQGHN, H., 1994 , tr.67)
“Hình
vị là đơn vị hai mặt, có đầy đủ tính chất tín hiệu. Đã là tín hiệu thì cái quan
trọng, về mặt chức năng là phần nội dung biểu đạt, nó quyết định sự tồn tại của
bản thân tín hiệu”
(Phan Thiều, Thảo luận chuyên đề Tiếng, hình vị
và từ trong tiếng Việt. “Ngôn ngữ”
2 , H., 1984, tr.54 )
“Hình
vị là một đơn vị ngôn ngữ có nghĩa, nhỏ nhất và không độc lập về cú pháp”
(Trần Ngọc Thêm. Bàn về hình vị tiếng Việt dưới góc độ
ngôn ngữ học đại cương. “Ngôn ngữ”
1 , H., 1984, tr.54 )
“Hình
vị là những đơn vị được tạo ra từ các âm vị, tự thân có nghĩa nhưng không được
dung trực tiếp để giao tiếp, tức không trực tiếp được dùng để kết hợp với nhau
tạo thành câu”
(Đỗ Hữu Châu. Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt.
Nxb GD , H., 1985, tr. 5 )
Ju.
X. Xtêpanov trong “Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương”, từ phương diện cấu
tạo, đưa ra định nghĩa: Hình vị là lớp các hình tố tương đồng mà mỗi hình tố
lại gồm nhiều âm vị nhánh và được gặp trong một vị trí nhất định nào đó”.
Tóm
lại, dù định nghĩa hình vị ở góc độ và phương diện nào thì các nhà ngôn ngữ
cũng dễ thống nhất với nhau ở những đặc điểm của hình vị :
-
Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, là đơn vị gốc để tạo thành từ.
-
Hình vị được cấu tạo bởi các âm vị.
-
Hình vị là đơn vị không độc lập về cú pháp.
-
Ý nghĩa tồn tại ở dạng tiềm năng (không được dung trực tiếp để giao tiếp, tức
không trực tiếp được dùng để kết hợp với nhau tạo thành câu).
1.1.2.
Về vấn đề phân loại hình vị
Trong
thành phần cấu tạo của từ, các hình vị được phân biệt thành hai loại: căn tố và
phụ tố.
Căn
tố là hình vị có ý nghĩa từ vựng thuần khiết,chưa được định
hình từ loại như từ. Nó là điểm xuất phát để hiểu được một từ. Nó có khả năng
liên kết với các hình vị khác để cụ thể hóa ý nghĩa của nó.
Phụ
tố là hình vị diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp và liên kết các căn tố
để biểu thị ý nghĩa phái sinh, ý nghĩa phạm trù hoặc một ý nghĩa quan hệ nào đó
cho căn tố.
Theo
vị trí chiếm giữ trong từ, các phụ tố được phân biệt thành tiền tố, hậu tố và
trung tố.
Tiền
tố ở trước vị trí căn tố. Ví dụ ở tiếng Anh có tiền tố -un-
(unhappy- bất hạnh ,
unemployment
- thất nghiệp …) , -im- (impolite - mất lịch sự , imformal
- thân mật . . .) , -dis- (dislike - không thích, disagree
- bất đồng ), -in- (indirect - gián tiếp, indefeasible
– không thể hủy bỏ)...
Hậu
tố ở vị trí sau căn tố ví dụ các hậu tố trong tiếng Anh : -er-
( teacher -giáo viên , painter - họa sĩ
… ) ; -less- (homeless - vô gia cư, careless
- thiếu cẩn thận, endless - vĩnh cửu …); -ion-(action
- (sự)hoạt động , selection - sự lựa chọn, attraction
- sự tấn công ). .
Trung
tố là các phụ tố nằm giữa các căn tố. Ví dụ trong tiếng Ê đê
và Jarai có trung tố - rơ - : bơrơsao (sự cãi nhau- rơ
: biểu thị ý nghĩa sự vật / bơsao - cãi nhau, có ý nghĩa hành động);
trong tiếng Nga có trung tố -o- ví dụ trong từ : Πаpoвоз -
đầu máy xe lửa (Πаp – hơi nước, воз – kéo , -o- là hình vị có tác dụng nối hình
vị Πаp với hình vị воз) …
Theo
chức năng của các hình vị có thể phân biệt các hình vị thực hiện chức năng
cấu tạo từ với các hình vị thực hiện chức năng cấu tạo hình thái từ
(biến đổi từ).
Các
hình vị cấu tạo từ bao gồm căn tố và các phụ tố liên kết với căn tố để
cụ thể hóa ý nghĩa cho các căn tố và tạo nên những từ mới. Các căn tố và phụ tố
cấu tạo từ tạo nên phần thân từ. Thân từ là phần chung lớn nhất của các hình
thái ngữ pháp của cùng một từ. Ví dụ trong tiếng Anh :
Căn tố
|
Phụ tố
|
Từ được cấu tạo
|
|
Tiền tố
|
Hậu tố
|
||
mature – tính từ
(chín chắn)
|
im
|
|
immature - tính từ
(thiếu chín chắn)
|
tidy – tính từ
(gọn gàng)
|
un
|
|
untidy – tính từ
(bừa bộn)
|
care - động từ
(quan tâm )
|
|
Full
|
carefull - tính từ
(cẩn thận )
|
modern – tính từ
(hiện đại)
|
|
Ize
|
Modernize - động từ
(hiện đại hóa)
|
happy – tính từ
(hạnh phúc)
|
|
Ness
|
Happyness – danh từ
( niềm hạnh phúc )
|
Hình
vị biến đổi từ là hình vị không làm biến đổi ý
nghĩa từ vựng của thân từ và được sử dụng chỉ để cấu tạo nên các hình thái mới
của cùng một từ chứ không được dùng để cấu tạo nên các từ mới. Các hình vị cấu
tạo hình thái có tác dụng để biến đổi hình thái của từ nên còn được gọi là các
biến tố. Ví dụ : (tiếng Anh)
Hình thái ban đầu
(dạng nguyên thể )
|
Hình thái biến đổi
|
to work (làm)
|
worked (- ed- biểu thị ý nghĩa ngữ pháp :
thời quá khứ)
I worked for Honda company in 1990.
|
to do (làm)
to watch (xem)
|
doing , watching (- ing- biểu
thị ý nghĩa ngữ pháp (thời) : tiếp diễn.)
A : - What are you doing now ? (Giờ anh đang
làm gì ?)
B : - I am watching TV. (Anh đang xem ti vi. )
|
to like (thích)
|
likes (-s- biểu thị ý nghĩa ngữ pháp : động từ chia ở thời
hiện tại, ngôi thứ 3, số ít)
She likes to drink coffee.
(Cô ấy thích uống cà phê )
|
book
|
books (hình vị -s- biểu thị danh từ số nhiều
)
I bought three books yesterday.
(Hôm qua, tôi mua ba quyển sách.)
|
Điều
cần lưu ý là trong vấn đề xác định đơn vị của ngôn ngữ nói chung và đơn vị của
ngữ pháp nói riêng người ta còn đề cập đến hiện tượng trùng cấp. Nghĩa
là trong ngôn ngữ có những yếu tố vừa là âm vị vừa là hình vị vừa là từ.
âm vị < hình vị
< từ < câu*
|
(* Dấu (=) biểu thị hiện tượng trùng cấp )
Ví
dụ trong tiếng Nga : -u- trước hết là một âm vị nhưng trong : pyҝu
-u- là một hình vị và -u- có thể là một từ với nghĩa là
“và”. Tương tự như vậy, trong tiếng Anh âm -i- được dùng để cấu tạo nên
hình vị căn tố -I- . Và hình vị căn tố này được dùng để cấu tạo đại từ
chỉ ngôi thứ nhất I /ai/ - tôi.
Như
vậy, theo những quan niệm như trên thì hình vị trong ngôn ngữ học, xét về mặt
cấu, hình vị có thể có ba khả năng :
-
Có hình thức âm thanh là một âm tiết như trong tiếng Anh: new (mới) , eat (ăn),
no (không), tiếng Nga: вес (trọng lượng)…
-
Gồm nhiều âm tiết: Ví dụ trong tiếng Anh: legal /’li:gәl/ - hợp pháp, tonic
/’tǝnik/ - rượu ngâm thuốc bổ …
-
Nhỏ hơn âm tiết (nghĩa là hình vị có thể được cấu tạo là một âm vị)như hai ví
dụ về -u- (trong tiếng Nga), -i- trong tiếng Anh nêu ở trên. Thêm một số
ví dụ như trong tiếng Anh : tables ( những cái bàn , hình vị -s-
biểu thị danh từ số nhiều; plays (chơi, hình vị -s- biểu
thị nghĩa : động từ chia ở ngôi thứ ba số ít, thời hiện tại ), trong tiếng Nga:
cәeлaть (-c- biểu thị ý nghĩa “hoàn thành thể” ) …
1.2.
Quan niệm về hình vị trong Việt ngữ học
Từ
lí thuyết chung về đơn vị cơ sở của ngôn ngữ trong ngôn ngữ học soi chiếu vào
tiếng Việt nảy sinh hai quan niệm không thống nhất về đơn vị ngữ pháp cơ sở của
ngữ pháp tiếng Việt.
Quan
niệm thứ nhất vận dụng khái niệm hình vị trong
ngôn ngữ học đại cương vào tiếng Việt. Theo quan niệm này, hình vị trong tiếng
Việt cũng có các dạng thức như hình vị trong các ngôn ngữ châu Âu. Như trên đã
trình bày : trong các ngôn ngữ châu Âu biến đổi từ, hình vị có thể có ba khả
năng : có hình thức âm thanh là một âm tiết ; gồm nhiều âm tiết ; nhỏ hơn âm
tiết. Theo quan niệm này, hình vị tiếng Việt cũng có ba khả năng:
Khả
năng thứ nhất : hình vị tiếng Việt có thể có hình thức âm thanh là một âm tiết.
Ví dụ như : chạy, bay, quần, nhà ….
Khả
năng thứ hai : hình vị tiếng Việt có thể bao gồm nhiều âm tiết. Ví dụ như : bồ
hóng, cà phê, xà phòng, đủng đỉnh…
Khả
năng thứ ba : hình vị tiếng Việt có thể nhỏ hơn âm tiết. Chứng minh cho điều
này, người ta đưa ra một số căn cứ trong tiếng Việt :
Căn
cứ thứ nhất : Tác giả L.C. Thompson trong “ The Problem of the Word in the
Vietnamese ” (Vấn đề của từ trong tiếng Việt) đã chứng minh : mỗi bộ phận của
âm tiết, thanh điệu, âm đầu, phần vần đều có thể là những hình vị thực sự bằng
cách đối chiếu một số từ nghi vấn và chỉ định trong tiếng Việt và rút ra những
điểm tương đồng về mặt ngữ âm và về mặt ý nghĩa :
thanh “huyền” , “không dấu” chỉ ý “gần” hoặc “giới thiệu”
|
thanh “sắc” chỉ ý “xa’ hoặc “đã xác định trước”
|
/đ/ - nơi chốn, vị trí tương đối
|
đâu
|
![]() |
đấy
|
đó
|
/n/ - vật cá biệt
|
nao
|
nay/này
|
nây/nấy
|
nọ
|
/b/- lượng, mức
|
bao
|
bây
|
bấy
|
|
/s, v/ - cách thức
|
sao
|
vầy
|
vậy
|
|

chỉ ý “bất định” chỉ ý “xác
định”
Căn
cứ thứ hai : căn cứ vào các từ láy trong tiếng Việt. Trong một số từ láy, có
những khuôn vần được lặp đi lặp lại và gắn với việc biểu hiện cùng một ý
nghĩa.Ví dụ :
mập mờ
bấp bênh
bập bênh
khấp khểnh
khập khiễng
cập kênh
|
thập thò
lấp lánh
lập lờ
vấp váp
lập bập
thấp thỏm
…
|
Vần “ấp” gắn với một ý nghĩa : trạng thái động
|
Căn
cứ thứ ba : Có tác giả còn dẫn ra hiện tượng nói gộp của một số phương ngữ, gộp
hai âm tiết thành một, để đặt ra vấn đề về ranh giới rạch ròi của âm tiết tiết
Việt là ở đâu ?
ông ấy
bà ấy
anh ấy
trên ấy
…
|
ổng
bả
ảnh
trển
…
|
Ba
khả năng về hình vị tiếng Việt theo quan điểm này đưa ra, khả năng thứ nhất
(hình vị tiếng Việt có thể có hình thức âm thanh là một âm tiết ) dễ dàng được
chấp nhận, không có gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, hai khả năng thứ hai và thứ ba
thì cần được xem xét thận trọng hơn.
Với
khả năng thứ hai (hình vị tiếng Việt có thể bao gồm nhiều âm tiết),
có thể các tác giả theo quan điểm này đã căn cứ vào những tiêu chí xác định
hình vị như : là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa ; có giá trị về mặt ngữ pháp. Và như
vậy, khi chúng ta soi chiếu vào các từ bồ hóng, xi măng, xà phòng, đủng đỉnh…
chúng ta dễ thấy các âm tiết bồ, hóng, cà, phê, xà, phòng … tự thân chúng đều
vô nghĩa. Và ngay khi đặt chúng vào trong cả đơn vị thì chúng cũng không có giá
trị gì. Tuy nhiên, theo GS. Nguyễn Tài Cẩn thì không thể vì thế mà có thể cho
rằng những sự kết hợp : bồ + hóng, cà + phê … chỉ là những sự kết hợp đơn thuần
về mặt ngữ âm giống như kiểu “ch + a = cha” được. Ông đưa ra sự phân tích :
“Nếu
chúng ta so sánh :
cà phê
|
cà cà phê phê gì !
có cà phê cà phiếc gì không ?
|
|
|
đủng đỉnh
|
đủng với đỉnh mãi !
sao cứ đủng đa đủng đỉnh thế ?
|
thì
chúng ta sẽ thấy là không thể nào cho rằng, ở đây, tiếng đầu và tiếng sau gắn
chặt với nhau thành một khối, làm thành một đơn vị tối giản -một đơn vị gốc duy
nhất như ở trường hợp ch+a được. Muốn trình bày và giải thích được qui
tắc sử dụng các từ cà phê, đủng đỉnh ở trong câu nói phải công
nhận rằng ở giữa cà và phê, đủng và đỉnhcó một
đường ranh giới đi ngang qua, tách hai tiếng thành hai đơn vị ngữ pháp riêng
biệt”. Từ đây GS. Nguyễn Tài Cẩn đi đến nhận định : trong tiếng Việt có loại
“Tiếng có khả năng giải thích mặt tổ chức đơn thuần hình thái” (Ngữ pháp
tiếng Việt, Nxb ĐHQGHN, H., 2004 (bản in lần thứ 7), tr. 14,15). Trong ngôn
ngữ học, loại đơn vị có khả năng giải thích mặt tổ chức đơn thuần hình thái như
thế, thường được gọi là hình vị hình thức. Và chúng tôi cho những kiến giải của
GS. Nguyễn Tài Cẩn là hợp lí.
Cũng
nói về những hiện tượng mà những người theo quan điểm thứ nhất này đã nêu là
khả năng thứ ba của hình vị tiếng Việt - hình vị tiếng Việt có thể nhỏ
hơn âm tiết, trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”, GS. Nguyễn Tài Cẩn còn
nêu thêm hiện tượng “iếc” hóa trong tiếng Việt (em iếc, gia đình gia điệc,
tổng thống tổng thiếc …). Ông cho rằng: những hiện tượng này có thể làm cho
người ta đi đến kết luận là : những bộ phận như “iếc” (hay những căn cứ ở đã
nêu ở trên) cũng là một đơn vị gốc của ngữ pháp, dùng để biểu thị một ý nghĩa
ngữ pháp, diễn đạt một phạm trù ngữ pháp. (và do đó, đường ranh giới ngữ pháp
sẽ không vạch ngang qua giữa hai tiếng mà vạch ngang qua lòng của tiếng ở chỗ
ranh giới giữa phụ âm đầu và vần(đ/iệc, tổng th/ống tổng th/iếc )).
Tuy nhiên, cũng theo GS. Nguyễn Tài Cẩn, quan niệm như vậy sẽ đưa đến những hậu
quả có chỗ không ổn:
Thứ
nhất : sẽ mâu thuẫn với kết quả khi lặp từ : chúng ta lặp thành “tổng tổng
thống thống gì” ! chứ không lặp thành “tổng th ống tổng th
ống ống gì”
Thứ
hai : sẽ mâu thuẫn với cả kết quả khi tách đôi từ : chúng ta nói “tổng với
thống gì!” chứ không tách thành “tổng th với ống gì!” …
Thêm
nữa những hiện tượng mà như ba căn cứ nêu ở trên thực ra trong tiếng Việt không
có nhiều, nó không phải là xu hướng chủ đạo. Do vậy, chúng ta thấy khó có thể
chấp nhận khả năng thứ ba ( hình vị tiếng Việt có thể nhỏ hơn âm tiết) mà những
người theo quan điểm thứ nhất này đưa ra.
Quan
niệm thứ hai : Những người theo quan niệm thứ hai
này cho rằng : mặc dù có những trường hợp nhiều âm tiết mới tạo nên một đơn vị
có nghĩa và mặc dù có hiện tượng một bộ phận của âm tiết gắn với một ý nghĩa
nào đó nhưng xu hướng chủ đạo trong tiếng Việt và các ngôn ngữ đơn lập là :
hình thức biểu hiện của hình vị là âm tiết (tiếng) (syllable)
Đây
là quan niệm thấy trong trường phái ngôn ngữ học Nga khi nghiên cứu tiếng Trung
Quốc và tiếng Việt (các ngôn ngữ Phương Đông trong ngành Đông Phương học)với
các tên tuổi như: E. D. Polivanov , Ju. V. Rozhdestvenskij , V.B. Kasevich , L.G.
Zubkova... Nhìn chung, họ quan niệm trong các ngôn ngữ đơn lập có đơn vị là
hình tiết. Tức là một loại đơn vị vừa là âm tiết vừa là hình vị (về mặt ngữ âm,
nó là âm tiết, về mặt ngữ pháp nó là hình vị). Người ta nói đến khả năng thứ
ba: nó cũng có thể là một từ đơn. Hiện tượng như vậy, có người gọi là “nhất thể
tam ngôi” (một thực thể vật chất đóng ba vai trò). Đây được coi là đặc trưng
loại hình của các ngôn ngữ đơn lập. Quan điểm này cũng là quan điểm của GS.
Nguyễn Tài Cẩn. Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” GS. Nguyễn Tài Cẩn viết:
“Trong tiếng Việt, có một loại đơn vị xưa nay ta thường quen gọi là “tiếng”,
“tiếng một” hay là “chữ”, ví dụ : ăn , học , nhà, cửa … (…)Trong
quan niệm của chúng tôi, mỗi một tiếng như thế chính là một một đơn vị gốc, -
một hình vị - của ngữ pháp tiếng Việt : tiếng là đơn vị có đủ cả hai đặc trưng
“đơn giản nhất về tổ chức” và “có giá trị về mặt ngữ pháp” (Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ
pháp tiếng Việt, Nxb ĐHQGHN, H., 2004 (bản in lần thứ 7), tr.
12,13).
Đoàn
Thiện Thuật, trong một công tình nghiên cứu của mình, cũng cho rằng âm tiết
trong tiếng Việt có cương vị ngôn ngữ khác với trong các ngôn ngữ ấn Âu.
Ông khẳng định điểm khác biệt đó là “trong tiếng Việt ranh giới âm tiết trùng
với ranh giới hình vị” (Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt, Nxb ĐH và
THCN, H.., 1980 . tr. 62) Chứng minh cho điều này, Đoàn Thiện Thuật phân tích
một câu trong một bài thơ của Hồ Chủ tịch :
Tiến lên toàn thắng ắt về ta
Ông
cho rằng nếu phân tích ở bình diện thứ nhất, bằng cách đối chiếu với những phát
ngôn khác, như “năm qua thắng lợi vẻ vang”, “tiến vào khoa học kỹ thuật”…
và rút ra những đơn vị có ý nghĩa nhỏ nhất, tức hình vị, ta sẽ có bẩy hình vị
khác nhau. Phát ngôn trên nếu được phân tích trên bình diện thứ hai bằng cách
căn cứ vào trọng âm, vào luồng hơi thở khi phát âm và đi tới những đơn vị phát
âm nhỏ nhất, tức âm tiết, thì ta có được 7 âm tiết. Như vậy số lượng âm
tiết và số lượng hình vị bằng nhau và ranh giới của chúng trùng nhau. Mỗi âm
tiết là hình thức biểu đạt của một hình vị. Thực ra, tiến xa hơn, chúng ta cũng
có thể khẳng định 7 âm tiết = 7 hình vị = 7 từ (hiện tượng
nhất thể tam ngôi trong các ngôn ngữ đơn lập)
Đoàn
Thiện Thuật cũng nêu thêm một số trường hợp mà có thể làm người ta đặt dấu chấm
hỏi khi khẳng định: ranh giới của âm tiết trùng với ranh giới của hình vị. Đó
là :
+
Các từ : xanh lè, tre pheo … thoạt đầu có thể nghĩ rằng yếu tố thứ hai
không có nghĩa và cả hai âm tiết mới biểu đạt một hình vị. Nhưng thật ra chúng
đề có nghĩa (“lè” - tiếng Mường có nghĩa là “xanh” , “pheo”- có nghĩa là tre)
+
Các từ lạnh lùng, thẹn thò, … Nếu đối chiếu với những từ đơn tiết như
“lạnh” , “thẹn” ta sẽ thấy được nghĩa của yếu tố thữ hai trong lạnh lùng
và thẹn thò. Nghĩa của nó là nghĩa toàn thể (gồm hai yếu tố ) trừ đi yếu
tố thứ nhất…
Để
hiểu rõ hơn vấn đề, thiết nghĩ cũng cần phải đề cập đến vấn đề âm tiết .
Vậy âm tiết là gì ? Tại sao lại có thể khẳng định như trên về hai đơn vị thuộc
hai lĩnh vực nghiên cứu khác nhau ? Xin được nêu dưới đây một số cách giải
thích về âm tiết :
“…Các
âm tiết là các đơn vị nhỏ nhất mà người ta có thể phân định lời nói của mình ra
bằng những chỗ ngắt. Các âm tiết là sự phân định tự nhiên của lời nói, được gắn
liền với bản thân sự tổ chức hô hấp trong quá trình của lời nói ” (Ju. X.
Xtêpanov - Sách đã đã dẫn - tr . 179-180)
“Âm
tiết là đơn vị, ví nó có cấu tạo xác định, hoàn chỉnh và không thể chia xẻ
được” (Hồ Lê. Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại. Nxb KHXH,
H.,1976. tr.64)
“Âm
tiết là một đơn vị ngữ âm được phát ra với một luồng hơi liên tục, không bị cắt
đoạn ra trong dòng ngữ lưu. Đứng về mặt hình thức mà nhìn thì hình vị có thể
trùng với nó” (Đái Xuân Ninh. Hoạt động của từ điển tiếng Việt. Nxb
KHXH, H., 1978, tr.12)
“Trong
tiếng Việt, các đơn vị ngôn ngữ học xuất hiện trực tiếp và ngay lập tức trước
khi có sự can thiệp của ngôn ngữ học là âm tiết. Là đơn vị không thay đổi, có
nghĩa, nó vừa có thể so với từ, vừa so sánh với hình vị trong các tiếng châu
Âu” (Phan Ngọc. Sự tiếp xúc ngữ nghĩa giữa tiếng Việt và tiếng Hán in trong
“Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á ”. Viện Đông Nam Á, H.,1983, tr.139 )
“Mỗi
chuỗi lời nói mà con người phát ra gồm nhiều khúc đoạn dài ngắn khác nhau. Đơn
vị phát âm ngắn nhất là âm tiết (syllable). Người nói dù cố tình
nói chậm đến đâu đi nữa thì cũng chỉ tách được đến âm tiết là hết. Một câu ca
dao như :
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?
Gồm
cả thảy mười bốn âm tiết.
Người
ta không thể phát âm được một đơn vị nhỏ hơn âm tiết. Nói cách khác, mỗi âm
tiết được phát âm nghe thành một tiếng. Phát ngôn có bao nhiêu tiếng là có bấy
nhiêu âm tiết. Với các ngôn ngữ như tiếng Việt, tiếng Trung, tiếng Thái,… thì
xác định số lượng và ranh giới âm tiết là không khó, nếu không muốn nói là quá
dễ dàng” (Mai Ngọc Chừ (chủ biên). Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb GD.
H.,2007, tr.130 )
Những
ý kiến trên về âm tiết , ở những mức độ nhất định đều góp phần khẳng định quan
niệm thứ hai là đúng đắn hơn cả. Bởi lẽ quan niệm này phù hợp với đặc trưng
loại hình của Việt ngữ - loại hình ngôn ngữ đơn lập. Một trong những đặc
điểm nổi bật của các ngôn ngữ thuộc loại hình này là tính phân tiết.
Nghĩa là : trong các ngôn ngữ này, các từ đơn tiết làm thành hạt nhân cơ bản
của từ vựng. Phần lớn những đơn vị được gọi là từ ghép, từ phái sinh được cấu
tạo từ các từ đơn tiết này. Vì thế, ranh giới các âm tiết thường trùng với ranh
giới các hình vị, hình vị không phân biệt với từ và do đó ranh giới giữa đơn vị
gọi là từ ghép và cụm từ cũng khó phân biệt.
Như
vậy âm tiết của tiếng Việt là hình thức âm thanh của một hình vị hoặc tiềm tàng
một khả năng được dùng như một đơn vị có nghĩa. Quan niệm này được dùng trong
nhà trường phổ thông hiện nay.
3.
Kết luận
Xin
được khép lại bài viết bằng ý kiến của GS. Nguyễn Tài Cẩn : “Nghiên cứu
ngữ pháp của một ngôn ngữ, trước hết phải xác định cho được, mô tả cho được cái
đơn vị gốc gọi là hình vị đó. Có khảo sát kỹ đơn vị này thì mới có đủ điều kiện
để tiến xa hơn, bàn đến các đơn vị bậc cao hơn, phức tạp hơn về mặt tổ chức”
(Sđd, tr. 10). Quả vậy! Nếu không giải quyết triệt để và đúng đắn vấn đề đơn vị
ngữ pháp cơ sở thì khó có thể xác định hướng đi tiếp theo trên con đường xây
dựng lí thuyết ngữ pháp học.
Trở
lên, chúng tôi đã nêu những quan niệm về đơn vị ngữ pháp cơ sở trong ngôn ngữ
học nói chung và trong Việt ngữ học nói riêng. Với những trình bày trên, chúng
tôi hi vọng phần nào làm rõ và nhận diện được một cách đúng đắn nhất đơn vị ngữ
pháp cơ sở trong Việt ngữ học.
Tài liệu tham khảo
1.
Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb ĐHQGHN, H., 2004(bản in lần thứ
7)
2.
Mai Ngọc Chừ (chủ biên), Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán, Nhập
môn ngôn ngữ học, Nxb GD, H., 2007
3.
Nguyễn Thiện Giáp(chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, Dẫn luận
ngôn ngữ học, Nxb GD, H.,2006
4.
Nguyễn Quang Hồng, Âm tiết và loại hình ngôn ngữ, Nxb ĐHQGHN, H., 2002
5.
Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đh và THCN , H., 1980
6
Nguyễn Như ý (chủ biên), Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lê, Từ điển
giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB GD, H.,2003
7
JU.X. Xtêpanov, Những cơ sở của Ngôn ngữ học đại cương, Nxb ĐH và THCN,
H., 1977
Bài: Đoàn Tiến Lực
Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa quốc tế